Quay lại
Tiếp theo

Thứ năm, 29/03/2018 | 05:37 GMT+7


[ Nghiên cứu ] Cải tiến định hướng dược phẩm số hóa tại bệnh viên công Việt Nam

 

 Phan Van Dinh

 

Công ty TNHH Ali Hà Nội, Việt Nam

 

Nguyen Thi Le Van và Nguyen Duc Bao Long

Trường Đại học Đông Đô, Việt Nam

Một số cơ quan thuộc hệ thống công lập trên toàn cầu đã và đang xác định Chương trình Đấu thầu Điện tử là một chương trình nghị sự Chính phủ điện tử ưu tiên. Đồng thời đã triển khai hoặc đang trong quá trình triển khai các hệ thống Mua sắm Đấu thầu.
Đấu thầu điện tử là bắt buộc đối với việc cung ứng dược phẩm cho các bệnh viện tại Việt Nam . Đấu thầu giúp cắt giảm chi phí, tiết kiệm thời gian cung ứng cũng như nguồn nhân lực cho các hoạt động cung ứng. Hiện nay, hình thức đấu thầu được áp dụng phổ biến là đấu thầu bằng văn bản mà bản thân hình thức này đã chứa đựng rất nhiều vấn đề như: lãng phí thời gian hay thiếu sự thông suốt,....Đấu thầu điện tử là một thuật ngữ khá mới tại Việt Nam và mới chỉ được áp dụng đến tại một số thành phố lớn như Hồ Chí Minh, Hà Nội hoặc Đà Nẵng. Để thúc đẩy ứng dụng đấu thầu điện tử trong các ngành công nghiệp dược phẩm tại một số tỉnh thành khác ở Việt Nam thì việc nghiên cứu sâu về tiềm năng ứng dụng và các yếu tố ảnh hưởng là rất cần thiết.
Mục tiêu tổng thể của công trình nghiên cứu này là tìm hiểu sâu thêm về các vấn đề Đấu thầu điện tử trong các bệnh viện thuộc hệ thống công lập; xây dựng khung khái niệm giúp xác định các yếu tố thành công quan trọng trong việc áp dụng và thực hiện Đấu thầu điện tử trong hệ thống công lập; và để thúc đẩy cuộc tranh luận giữa việc cung ứng số hóa CSFs và các biện pháp có liên quan để dẫn đến thành công. Thông qua cuộc khảo sát và việc tổng quan tài liệu, bài nghiên cứu này xác định ra các mối quan hệ giữa việc thúc đẩy Đấu thầu dược phẩm điện tử tại phía Tây Bắc Việt Nam và trên phạm vi thế giới. Các mối quan hệ được xác định cùng với các yếu tố thông suốt, tính cạnh tranh, sự bình đẳng và tri phí Đấu thầu điện tử.
Các từ khóa: Đấu thầu Điện tử Dược phẩm, Đấu thầu Điện tử, Đấu thầu Điện tử Dược phẩm tại các Bệnh viện thuộc hệ thống Công lập Việt Nam.

Giới thiệu
Trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nói chung và việc thực thi chính sách bảo hiểm xã hội nói riêng thì thuốc đóng một vai trò rất quan trọng. Cũng giống như các Quốc gia đang phát triển, chi phí thuốc ở Việt Nam chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng chi phí y tế. Theo tài khoản y tế Quốc gia năm 2008, số tiền chi cho thuốc đã tăng gấp đôi từ năm 2000 đến năm 2007, chiếm khoảng 40% tổng số chi phí y tế xã hội.
Số liệu thống kê về Bảo hiểm Xã hội Việt Nam gần đây đã cho thấy chi phí thuốc chiếm tỷ lệ cao lên đến 60-70% tổng chi phí bảo hiểm y tế.
Thị trường thuốc ở Việt Nam rất đa dạng và phong phú về số lượng và chất lượng. Năm 2009, trong số 22.615 số đăng ký thuốc có giá trị, có 10.692 và 11.923 dược phẩm trong nước nhập khẩu từ nước ngoài. Giá trị sản xuất trong nước tăng từ 111,4 triệu Đô la Mỹ năm 1996 lên đến 919 triệu Đô la Mỹ trong năm 2010. Dược phẩm sản xuất trong nước ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng số giá trị tiêu dùng dành cho thuốc, tăng từ 26% năm 1996 lên trên 48% trong năm 2010.
Thuốc đang ngày càng được sản xuất nhiều trong nước để đáp ứng nhu cầu điều trị. Trong năm 1996, sản xuất thuốc trong nước chỉ có khoảng 3.400 tên thuốc với dưới 200 hoạt tính. Nhưng hiện nay có khoảng 500 hoạt chất với 1.500 thành phần hoạt chất trong thuốc có tỷ lệ trong nước đã được đăng ký.
Việc cung cấp thuốc cho bệnh viện phải thông qua đấu thầu theo các quy định hiện hành. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có một số thiếu sót trong việc cung cấp thuốc cho bệnh nhân nói chung và bệnh nhân có bảo hiểm y tế nói riêng. Cơ chế đấu thầu truyền thống không có hiệu quả, cần phải điều chỉnh và tăng cường việc thực hiện quy trình đấu thầu tại bệnh viện và đồng thời cần phải điều chỉnh giá thuốc được hợp lý hơn.
Việc áp dụng đấu thầu điện tử để mua bán thuốc trong các bệnh viện công là điều quan trọng và không thể tránh khỏi để nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc cung ứng thuốc cũng như cải thiện những thiếu sót mà việc cung ứng thuốc truyền thống phải đối mặt.
Do còn yếu kém về hóa chất nên 90% nguyên liệu sản xuất thuốc tây được nhập khẩu. Các loại nguyên liệu dược phẩm nhập khẩu chủ yếu là kháng sinh và vitamin, chiếm hơn 80% giá trị nhập khẩu.
Trung Quốc và Ấn Độ là hai Quốc gia xuất khẩu nguyên liệu dược phẩm lớn nhất vào Việt Nam, lần lượt chiếm 25% và 21% trong năm 2008. Hiện tại, các công ty Việt Nam chủ yếu sản xuất thuốc thông thường, họ đang sử dụng nhiều loại nguyên liệu dược liệu với giá rẻ nhập khẩu từ Trung Quốc và Ấn Độ.
Ngành dược phẩm được tiếp cận với người tiêu dùng thông qua hệ thống phân phối điều trị và mạng lưới phân phối thương mại.
Mạng lưới phân phối Điều trị. Mạng lưới điều trị bao gồm các bệnh viện và các đơn vị điều trị khác ở các cấp khác nhau. Tổng số đơn vị khám và chữa bệnh của Việt Nam năm 2007 là 13.438 người. Hầu như tất cả các công ty dược phẩm muốn quảng bá kênh phân phối này do lượng tiêu thụ lớn.
Kênh tiêu thụ thuốc lớn nhất của Việt Nam đối với các sản phẩm xử lý là các bệnh viện công. Dược phẩm được cung cấp cho bệnh viện thông qua đấu thầu. Ngoài ra, việc bán hàng thông qua các bệnh viện chiếm một lượng vốn lưu động cao của các công ty dược phẩm vì các bệnh viện thường giải quyết thanh toán vào cuối năm.
Mạng lưới phân phối thương mại. Mạng lưới thương mại bao gồm các chi nhánh, đại lý, nhà phân phối và hệ thống nhà thuốc. Hiện nay, các công ty dược phẩm trong nước đang cố gắng hết sức để thúc đẩy kênh phân phối thương mại nhằm mục tiêu giảm sự phụ thuộc vào mạng lưới phân phối điều trị đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt. Mạng lưới phân phối này chủ yếu bao gồm các nhà phân phối nội địa. Trong khi đó chỉ có ba nhà phân phối nước ngoài trong thị trường bao gồm Zeullig Pharma, Diethelm và Megaproduct.
Trong nghiên cứu này, nhà nghiên cứu tập trung vào việc cung cấp các sản phẩm dược phẩm cho các bệnh viện công thông qua đấu thầu dược phẩm. Nhằm thúc đẩy ứng dụng thầu điện tử trong lĩnh vực dược phẩm, nhà nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu trong bối cảnh Tây Bắc.
Việc cung cấp các sản phẩm dược phẩm trong các bệnh viện công ở vùng Tây Bắc phản ánh nhiều đặc điểm chung của các quy định cung cấp dược phẩm của Việt Nam như cung cấp thuốc qua đấu thầu. Tại mỗi tỉnh, Bộ Y tế sẽ xây dựng kế hoạch đấu thầu hàng năm hoặc 6 tháng một lần (thuốc được mua theo danh mục thuốc thiết yếu). Ngân sách dành cho hồ sơ dự thầu này là từ (1) ngân sách Quốc gia, (2) bảo hiểm y tế, và (3) nguồn thu của bệnh viện. Nhà cung cấp dược phẩm là những người có khả năng, kinh nghiệm và điều kiện tham gia đấu thầu. Đấu thầu có giá trị trong vòng 1 năm.
Tuy nhiên, bản thân việc đấu thầu này mang rất nhiều vấn đề bao gồm:
Thông tin đấu thầu chỉ công khai trên "Tạp chí Đấu thầu". Trong khi đó đây là tạp chí khá xa lạ với nhiều người khiến cho nhiều nhà thầu không tiếp cận được các hồ sơ dự thầu.
Hồ sơ dự thầu chỉ được bán tại văn phòng của chủ thầu mà đôi khi tạo trở ngại địa lý cho nhiều nhà thầu.
Đôi khi một số nhân viên của chủ thầu thậm chí không muốn bán quá nhiều hồ sơ dự thầu để tránh đánh giá hồ sơ của nhiều nhà thầu.
Thời gian chuẩn bị và nộp hồ sơ dự thầu quá ngắn trong khi hầu hết các tỉnh thành
Tây Bắc khá xa khu vực trung tâm. Điều này làm cho nhiều nhà thầu không thể tham gia đấu thầu.
Quy mô đánh giá thầu phản ánh một số tiêu chí không công bằng.
Các đấu thầu truyền thống chi phí thời gian, nỗ lực và tiền rất nhiều.

Vấn đề Nghiên cứu
Các vấn đề đặc biệt cần được giải quyết trong phạm trù Phác thảo Truyền thống Hughes (2003) nhấn mạnh chi phí đáng kể liên quan đến việc đấu thầu chiếm khoảng 1,17% giá trị của công việc.
Khi được xem xét đối nghịch với tỷ lệ thành công có thể nói là 1/5, Hughes báo cáo rằng chi phí của mỗi giá thầu chiến thắng có thể đạt bằng 6% giá trị của gói thầu. Ngoài ra, 93% đối tượng được khảo sát về Thầu điện tử thực hiện bởi CITA vào năm 2006 đều cho rằng chi phí đấu thầu là tương đối tốn kém.
Các rào cản đối với việc áp dụng đấu thầu điện tử
Martin (2003) thông qua cuộc khảo sát Anh đã chỉ ra một số lợi ích của công nghệ hợp tác dự án trong đó một số lợi ích đã được thảo luận ở trên. Song hành với các lợi ích là một số mặt bất lợi.
Như đã thảo luận phía trên, hệ thống thầu điện tử như vậy có các yếu tố lợi ích như: tăng tính minh bạch, tăng tốc độ truyền thông tin và tăng khả năng tiếp cận. Xét về mặt tiêu cực, Martin cho biết các cá nhân tiết lộ tồn tại chi phí thời gian và tiền bạc để in các bản vẽ quy mô. Ngoài ra cũng xác định một số thành viên không có đủ năng lực IT (công nghệ thông tin) và còn tồn tại sự thiếu hụt các chỉ mục hồ sơ.
Bài báo của nhóm tác giả chủ đạo Eadie (2007) có liên quan nhiều hơn đến chuyên đề đấu thầu điện tử. Thông qua nghiên cứu và khảo sát tài liệu của họ, đã có mười một rào cản được đánh dấu cho quá trình đấu thầu điện tử thực hiện ở miền Bắc Ireland. Những rào cản này là: vị trí pháp lý về mua bán, văn hoá công ty, hỗ trợ quản lý cấp trên, cơ sở hạ tầng CNTT, hệ thống CNTT quá tốn kém, thiếu chuyên môn kỹ thuật, thiếu kiến thức  cung ứng điện tử/  nhân viên có kỹ năng, thiếu mối quan hệ kinh doanh với các nhà cung cấp thiết bị điện tử, bảo mật giao dịch, mối quan tâm về khả năng tương tác, không nhận được lợi ích kinh doanh.
Các vấn đề minh bạch
Ngoài ra, "niềm tin" là một từ khóa sử dụng quá mức khi thảo luận về đấu thầu. Theo Kashiwagi, "Niềm tin và các quy tắc khuyến khích là không đủ. Sự minh bạch là điều cần thiết. Khi chỉ có niềm tin, rủi ro gia tăng". Khi có tính minh bạch, mọi người đều biết điều gì đang diễn ra và có thể giải quyết các vấn đề một cách kịp thời, giảm thiểu rủi ro và trách nhiệm. Do đó "niềm tin" là không cần thiết nữa. Công việc của nhà thầu là "Giáo dục khách hàng" và "khách hàng phải học cách buông bỏ kiểm soát". Kashiwagi nói điều này  trong tiến trình đòi hỏi một "Thay đổi mô hình".
Tất nhiên sự thay đổi đó không xảy ra qua đêm. Và khi lắng nghe những vấn đề mà Peter Lundhus  phải đối mặt với dự án Liên kết Fehmarnbelt, vấn đề đặt ra là bằng cách nào để bạn vượt qua những trở ngại cản trở việc giao tiếp và hợp tác, những đóng góp của nhà thầu chủ động?
Đối với Fehmarnbelt Link, Hiệp ước Nhà nước giữa Đan Mạch và Đức đã được ký năm 2006 với ý định xây dựng bắt đầu năm 2008 và hoàn thành vào năm 2020. Vấn đề đầu tiên nhóm Fehmarnbelt đối mặt là phải xác định xem một chiếc cầu hay một đường hầm có thể là một càu nối hợp lý nhất giữa miền Bắc Đức và miền Nam Đan Mạch.

Việc Đấu thầu Thuốc ở các Bệnh Viện thuộc Hệ thống Công lập Việt Nam
Trong quản lý thuốc, Nhà nước ban hành các quy định để đảm bảo các loại thuốc công được đấu thầu  hiệu quả. Đồng thời bệnh nhân được cung cấp thuốc tốt và giá rẻ. Thông tư liên tịch số 10/2007 / TTLT-BYT-BTC ngày 10/8/2007 của Bộ Y tế - Bộ Tài chính hướng dẫn về 3 hình thức đấu thầu bao gồm:
Đấu thầu tập trung (mẫu 1). Với mẫu này, Bộ Y tế sẽ tổ chức đấu thầu tập trung các loại thuốc có nhu cầu thường xuyên và số lượng lớn cho tất cả các đơn vị y tế công cộng địa phương. Danh sách các loại thuốc đấu thầu sẽ được bổ xung dựa trên nhu cầu của các trung tâm chăm sóc sức khỏe cộng đồng địa phương. Các đơn vị y tế sẽ đấu thầu thuốc trực tiếp với các nhà cung cấp dịch vụ y tế đã chọn.
Đấu thầu đại diện (mẫu 2): Theo mẫu này, Bộ Y tế sẽ chỉ định một hoặc một số đơn vị y tế tổ chức đấu thầu đại diện (thường là một bệnh viện tuyến tỉnh và một bệnh viện tuyến huyện). Các loại thuốc truyền thống sẽ được bệnh viện truyền thống của tỉnh đấu thầu. Các đơn vị chăm sóc sức khoẻ cộng đồng khác sẽ sử dụng kết quả đấu thầu để mua dược phẩm. Áp dụng hình thức đấu thầu này, giá thuốc sẽ được cố định thống nhất trong toàn tỉnh. Nhưng danh mục thuốc các bệnh viện khác sẽ phụ thuộc vào danh sách các loại thuốc đã đấu thầu. Các nhà cung cấp thuốc đã được chọn sẽ trực tiếp cung cấp thuốc cho bệnh viện hoặc thông qua một nhà cung cấp có thẩm quyền.
Đấu thầu tự thực hiện (mẫu 3): Với hình thức này, các bệnh viện công sẽ tự tiến hành đấu thầu thuốc. Danh sách các loại thuốc đấu thầu sẽ được bổ xung dựa trên nhu cầu của mỗi bệnh viện. Giá cả thuốc được chọn lựa có thể không đồng nhất giữa các bệnh viện. Hình thức đấu thầu này thường được áp dụng ở các bệnh viện Trung ương.

Phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là 250 thương nhân bán thuốc ở Việt Nam do Bộ Y tế Việt Nam cung cấp. Tỷ lệ phản hồi mục tiêu được xác định dựa trên sự phân bố về mặt vị trí địa lý của các đối tượng nghiên cứu. Các đối tượng nghiên cứu được lựa chọn ngẫu nhiên làm mẫu nghiên cứu tại mỗi tỉnh thành nhằm thu được tỷ lệ tỷ lệ phản ứng dự kiến. Trong trường hợp sự phản hồi không được thu nhận một cách hợp lý từ một công ty bất kỳ trong danh danh sách mẫu thì sẽ có được thay thế bằng một công ty tiếp theo trong danh sách.
Phạm vi phỏng vấn dựa trên các biến số của mẫu nghiên cứu, bao gồm tính minh bạch, khả năng cạnh tranh, bình đẳng, phí đấu thầu và các thành phần tham gia Quốc tế. Vì vậy, người trả lời cần hiểu và có thẩm quyền cung cấp các dữ liệu cần thiết. Theo đó, thông thường họ là giám đốc của các công ty này.
Các biến số nghiên cứu bao gồm các biến nhân khẩu học, và hồ sơ đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu có các biến số độc lập (tính minh bạch, tính cạnh tranh, bình đẳng, phí đấu thầu và các thành phần tham gia Quốc tế) và một biến phụ thuộc (thầu dược phẩm). Bài nghiên cứu này đã áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng với mẫu nghiên cứu là 250 công ty hợp lệ. Giá trị Alpha Cronbach (α) được sử dụng để kiểm tra độ tin cậy của các biến số nghiên cứu.
Các kết quả của Alpha Cronbach (α) thu về được đều trên 0,9 đối với tất cả các biến. Cụ thể như sau:

Thống kê đáng tin cậy

 

 
Biến số Số.
 
Tên Biến số
 
Số mục
 
Alpha Cronbach (α)
Biến số 1
Tính minh bạch
5 mục
0.943
Biến số 2
Khả năng cạnh tranh
5 mục
0.999
Biến số 3
Bình đẳng
5 mục
0.912
Biến số 4
phí Đấu thầu
5 mục
0.927
Biến số 5
thành phần tham gia Quốc tế
5 mục
0.911
Biến số
Bài nghiên cứu này có năm biến số độc lập và một biến phụ thuộc. Các biến số độc lập đã được chọn lựa một cách nghiêm túc từ tổng quan tài liệu xem như là các yếu tố quan trọng trong các mối quan hệ tác động.
Tính Minh bạch
Trong bối cảnh đấu thầu công, tính minh bạch được xem là một trong những biện pháp ngăn chặn hiệu quả nhất đối với thực trạng tham nhũng. Đây là điều kiện tiên quyết để đảm bảo trách nhiệm giải trình của cán bộ công chức. Các hoạt động đấu thầu hiệu quả đòi hỏi phải thiết lập các công cụ minh bạch. Các công cụ minh bạch này cần xây dựng và duy trì sự tự tin của cả nhà cung cấp / người tiếp xúc và công chúng, duy trì sự tham gia của các bên. Tính minh bạch trong các đấu thầu công bao gồm: minh bạch các cơ hội đấu thầu và minh bạch các thủ tục đánh giá hợp đồng và giải thưởng. Để đo lường hiệu quả đơn giản là so sánh giữa mục tiêu và kết quả.
Trong số các mục tiêu khác nhau của các lĩnh vực đấu thầu Y tế Công cộng, việc cần phải đạt được giá mua tốt, trong khi vẫn đảm bảo các tiêu chuẩn định tính là một mục tiêu quan trọng. Để đánh giá tác động đấu thầu điện tử lên chiều hướng này, mức chiết khấu trung bình trên giá khởi điểm là một căn cứ đánh giá tốt, với điều kiện là các nhà thầu điện tử phải đáp ứng tối thiểu các tiêu chuẩn định tính. Đấu thầu điện tử nên cho phép mức chiết khấu cao hơn bởi các thị trường lớn hơn được tiếp cận. Đồng thời, đấu thầu điện tử nên dễ dàng hơn khi sử dụng các công cụ tiên tiến cho các cuộc đàm phán, chẳng hạn như đấu giá điện tử.
Tính Cạnh tranh
Tính Cạnh tranh là một đại lượng phân tích nhìn chung có vẻ phù hợp hơn với các công ty tư nhân, thay vì các Tổ chức Công. Tuy nhiên, các tổ chức công có thể tạo ra mức độ cạnh tranh trên thị trường cao nhất.
Hơn nữa, một đơn vị đấu thầu có thể cạnh tranh với các Tổ chức Công khác nhằm cùng đạt được thành công. Mức độ tham gia cao của các nhà cung cấp vào quá trình đấu thầu và việc sử dụng đấu giá điện tử được coi là các chỉ số cạnh tranh tốt. Ngoài ra, các hoạt động chiến lược như duy trì định giá và thăm dò thị trường tiến hành nhằm xác định các Tổ chức Công thúc đẩy tính cạnh tranh như thế nào.
Sự phù hợp của tính cạnh tranh hiệu quả trong môi trường đấu thầu gần như không được quá nhấn mạnh. Nếu không có cạnh tranh hiệu quả thì cho dù các quy tắc đấu thầu được áp dụng và thiết kế tốt như thế nào, người mua công sẽ khó kiếm lợi nhuận (OFT / econ, 2004). Đồng thời không thể tránh khỏi lãng phí các nguồn lực công do tính không hiệu quả của hệ thống (OFT, 2010). Mặt khác tồn tại nguy cơ nghiêm trọng củng cố hoặc thậm chí làm trầm trọng thêm các cấu trúc thị trường không cạnh tranh hoặc chống cạnh tranh (Ủy ban Châu Âu, 2011a).
Trong thực tế, để đạt được giá trị đồng tiền và là công cụ thích hợp đối với khu vực công,
các hoạt động đấu thầu công cần diễn ra trong các thị trường giàu tính cạnh tranh và thịnh vượng
(Kettl, 1993, Cox, 1993, Schooner, 1999, Cooper, 2003, Brunk, 2006 và Anderson & Kovacic, 2009). Điều này phù hợp với quan điểm đa số học giả ủng hộ sự cạnh tranh luôn là yếu tố thiết yếu trong quá trình xây dựng hệ thống đấu thầu công. Đa số học giả cũng ủng hộ thêm tính cạnh tranh song hành cùng với sự không phân biệt và minh bạch, xếp hạng (hoặc nên xếp hạng) trong số các mục tiêu hàng đầu của mỗi hệ thống đấu thầu (Kelman, 1990, Arrowsmith và cộng sự, 2000, Schooner, 2001 & 2002, Trepte, 2004, Weiss & Kalogeras, 2005; Perlman, 2007; Schooner và cộng sự, 2008; Schiavo-Campo & Mcferson, 2008; Dekel, 2008; Sánchez Graells, 2010).
Tính Bình Đẳng
Vấn đề bình đẳng trong bối cảnh đấu thầu có thể phát sinh từ những thất bại bình đẳng trong thực tiễn đấu thầu của cơ quan có thẩm quyền, ví dụ như phân biệt đối xử trực tiếp hoặc gián tiếp dựa trên quốc tịch, giới tính, chủng tộc,.v..v, trong việc thực hiện các quy trình đấu thầu của đơn vị thẩm quyền theo hợp đồng.
Thuật ngữ 'tiêu chuẩn được bảo vệ' được Ruth Nielsen (2005) dùng như một thuật ngữ chung bao gồm tất cả các tiêu chí trên (quốc tịch, giới tính, sắc tộc , nguồn gốc, tôn giáo, tuổi tác, vv). Theo quy chiếu đó có việc bảo vệ hợp pháp chống lại (một số loại) kỳ thị. Vấn đề bình đẳng trong bối cảnh đấu thầu cũng có thể nảy sinh từ việc thiếu các yêu cầu lồng ghép các nghĩa vụ của cơ quan có thẩm quyền. Vấn đề bình đẳng có thể phát sinh thêm từ những thất bại bình đẳng trong xã hội nói chung.
Nghiên cứu của Ayres về các cuộc thương lượng bán lẻ ô tô cho thấy nam giới và phụ nữ không có hợp đồng tương tự khi mua trong khu vực các doanh nghiệp tư nhân. Trong những tình huống này, giá cả hoàn toàn không được cố định.
Phí đấu thầu
Phí đấu thầu được xem là một vấn đề trong đấu thầu. Nhiều nhà thầu có thể bị nản lòng bởi khoản phí đấu thầu.
Để khích lệ đấu thầu, lệ phí phải hợp lý và có chọn lọc để tạo ra một cuộc đấu thầu lành mạnh. Trong đấu thầu điện tử, lệ phí là một vấn đề từ đó, môi trường thầu có thể được cải thiện.
Các thành phần Quốc tế
Sự tham gia của các nhà thầu Quốc tế sẽ tăng lên khi thực hiện đấu thầu điện tử. Với sự tham gia này, việc tham gia đấu thầu sẽ có tính cạnh tranh, minh bạch hơn và chất lượng đấu thầu sẽ được
cải thiện. Đấu thầu điện tử là giải pháp khẩn cấp cho các bệnh viện nâng cao chất lượng đấu thầu và giảm thời gian và chi phí đấu thầu.
Đấu thầu Điện tử Dược phẩm
Biến phụ thuộc cho nghiên cứu này là dược phẩm đấu thầu. Đây là một định nghĩa hoàn toàn mới tại Việt Nam, đặc biệt là ở các bệnh viện phía Bắc của Việt Nam.
Trong nghiên cứu này, đấu thầu điện tử dược phẩm được định nghĩa là đấu thầu cho các sản phẩm dược phẩm thông qua hệ thống điện tử.
Mẫu nghiên cứu
Sự phát triển của mẫu nghiên cứu được cho là phần quan trọng nhất của bất kỳ nghiên cứu nào (Veal, 2005). Vì vậy chương này giới thiệu một khung khái niệm cho nghiên cứu này và mẫu các biến số.
Mục đích của nghiên cứu là xác định các mối quan hệ tồn tại giữa 5 yếu tố kết hợp cốt lõi đã được xác định trong mục tổng quan tài liệu và mục thúc đẩy đấu thầu dược phẩm.
 
Mẫu Nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu ban đầu thông qua việc nghiên cứu một số nghiên cứu về đấu thầu điện tử, đặc biệt trong ngành dược phẩm. Nhà nghiên cứu sau đó tạo ra một mẫu nghiên cứu dành cho trường hợp ở miền Bắc Việt Nam.
Giả thuyết Nghiên cứu
Từ mẫu nghiên cứu trên, các giả thuyết nghiên cứu được thiết lập để kiểm tra các mối quan hệ
giữa các yếu tố ảnh hưởng và đấu thầu điện tử trong ngành dược phẩm.
Ha: Có mối quan hệ giữa tính minh bạch và đấu thầu dược phẩm.
Hb: Có một mối quan hệ giữa tính cạnh tranh và đấu thầu dược phẩm.
Hc: Có mối quan hệ giữa tính bình đẳng và đấu thầu dược phẩm.
Hd: Có một mối quan hệ giữa chi phí đấu thầu và đấu thầu dược phẩm.
He: Có một mối quan hệ giữa sự tham gia của Quốc tế và đấu thầu dược phẩm.
 
Phân tích Dữ liệu
Tất cả đối tượng nghiên cứu đồng ý tham gia đã trả lời đầy đủ và cởi mở. Họ hiểu rằng dữ liệu thu thập được là để tăng cường xúc tiến đấu thầu điện tử trong bối cảnh đấu thầu công và các câu trả lời của họ đều thành thật và đáng tin cậy. Những người tham gia thảo luận với nhà nghiên cứu đều được khích lệ hứng thú trong câu trả lời của họ, tương tự như đối với những người tham gia thí nghiệm Hawthorne (Daft, 1997, trang 48). Thêm vào đó họ được phản ánh rằng tất cả các yếu tố hỗ trợ nghiên cứu sẽ có thể cải thiện nếu được nghiên cứu và giải quyết tốt.
Việc áp dụng Đấu thầu điện tử
Những người trả lời cuộc khảo sát đã báo cáo về mức độ hiện tại và các ý định trong tương lai để áp dụng đấu thầu điện tử trong các tổ chức của họ. Kết quả được trình bày trong Bảng dưới đây cho thấy rằng 41% người được hỏi đã đấu thầu trực tuyến, hơn 43% mong đợi bắt đầu đấu thầu trực tuyến trong vòng một đến hai năm tới, 16% không có kế hoạch áp dụng đấu thầu điện tử.
 
Các mức độ áp dụng đấu thầu điện tử
 
Các mức độ áp dụng đấu thầu điện tử
 
Phần trăm tổng số người khảo sát
Đã đấu thầu trực tuyến
21%
Có dự định đấu thầu trực tuyến sau 1- 2 năm nữa
63%
Không có dự định đấu thầu trực tuyến
16%
Các đơn vị từ tầm cỡ vừa đến tầm cỡ lớn chiếm đại đa số những người đã áp dụng, hoặc có ý định áp dụng đấu thầu điện tử trong 1-2 năm tới. Kết quả này ủng hộ các cuộc nghiên cứu khác cho rằng "khả năng đặt hàng thông qua Internet tăng theo quy mô của doanh nghiệp" (ABS 2006).
Không có dự định đấu thầu trực tuyến
Những lý do phổ biến nhất được cung cấp bởi các tổ chức không có dự định đấu thầu trực tuyến hiện tại chi phí thực hiện cao; quy mô đơn vị (một số đơn vị tin rằng họ quá nhỏ để hưởng lợi từ việc đấu thầu điện tử); thiếu sự hỗ trợ và tính đa dạng về quản lý xung quanh đặc điểm tự nhiên và tính đa dạng của sản phẩm và dịch vụ tham gia đấu thầu.
Tầm Quan trọng Chiến lược của Đấu thầu Điện tử
Một số đối tượng nghiên cứu đã thực hiện đấu thầu điện tử được hỏi: Đấu thầu điện tử có là vấn đề chiến lược quan trọng trong tổ chức của họ hay không? 74% các đơn vị đã tham gia đấu thầu điện tử trực tuyến cực kỳ đồng ý với tầm quan trọng của đấu thầu điện tử. Kết quả này nhất quán với các nghiên cứu khác cùng cho thấy vai trò chiến lược của đấu thầu điện tử ngày càng tăng (Laub 2001, Knudsen 2002).

 

Tầm Quan trọng Chiến lược của Đấu thầu Điện tử
 
Tầm Quan trọng Chiến lược của Đấu thầu Điện tử
 
 
Phần trăm
Cực kỳ quan trọng
24%
Quan trọng
50%
Hoặc là quan trọng hoặc là không quan trọng
17%
Không quan trọng
3%
Cực kỳ không quan trọng
6%
Sự hồi quy tuyến tính bội giữa đấu thầu điện tử dược phẩm và các yếu tố
Để có tính phù hợp cho quá trình hồi quy, một mô hình đã được tuyển chọn. Từ bảng biểu dưới đây, chúng ta có thể thấy mô hình 1 với năm yếu tố có thể được sử dụng để giải thích mối quan hệ với việc đấu thầu dược phẩm.
Trong bảng dưới đây, giá trị phương sai R điều chỉnh có hệ số tương quan bội (R2 điều chỉnh) cho thấy 74,6% biến số liên quan đến xúc tiến thương mại điện tử dược phẩm có thể được giải thích thông qua 5 biến số. Thống kê F cũng rất quan trọng (F = 67.043) xác nhận rằng tất cả 5 biến cùng đóng góp đáng kể tạo ra tính phù hợp của mô hình hồi quy. Đồng thời thống kê F cũng có ý nghĩa thống kê quan trọng trong việc giải thích sự khác biệt trong xúc tiến đấu thầu điện tử.

 

Tóm tắt Mẫu b
Mẫu
R
Phương sai R
Phương sai R điều chỉnh
Lỗi Std ước tính
Biến động thống kê
Biến động phương sai
Biến động F
Biến động F có ý nghĩa
1
.865 a
.748
.746
.63987927
.746
67.043
.000
a. Hằng số: IV5, IV4, IV3, IV2, IV1
b. Biến phụ thuộc: DV
Mô hình 1 trong Bảng dưới đây cho thấy các hệ số cho năm biến số dự báo thúc đẩy dự thầu dược phẩm điện tử làm mức cơ sở.
Độ tin cậy của hằng số (p <0,05) chỉ ra mối quan hệ giữa giữa xúc tiến đấu thầu điện tử dược phẩm và tính minh bạch (p <0,05), tính cạnh tranh, bình đẳng, phí đấu thầu và sự tham gia của Quốc tế.

 

Các Hệ số
1
Mẫu
(không đổi)
Tính minh bạch
Hệ Số Không Tiêu Chuẩn
B                   Lỗi Std.
.003                 0.42
.445                 0.42
Hệ Số Tiêu Chuẩn
 Beta
 .444
T
0.69
10.494
Sig.
.945
.000
Tính cạnh tranh
.347
0.42
.347
8.199
.000
Chất lượng
.347
0.42
.346
8.182
.000
Phí thầu
.300
0.42
.299
7.075
.000
Sự tham gia Quốc tế
.271
0.42
.271
6.394
.000
a. Biến Phụ thuộc: REGR DV1
Thông qua hồi quy tuyến tính bội, công thức là: AVG C = 0.003 + 0.445 B1 + 0.347 B2 + 0.347 B3 + 0.300 B4 + 0.271 B5
Công thức này có mức độ ý nghĩa sig. <0,05. Có thể kết luận rằng có mối quan hệ tích cực đáng kể giữa IV1, IV2, IV3, IV4, IV5 và DV. Hoặc có thể nói có sự liên quan rõ ràng giữa tính minh bạch, tính cạnh tranh, bình đẳng, phí dự thầu và sự tham gia của quốc tế và xúc tiến đấu thầu điện tử dược phẩm.
Tóm tắt Kết quả Giả thuyết

 

Tóm tắt Giả thuyết
 
Số
 
Giả thuyết
 
Kết quả
1
Có một mối quan hệ giữa đấu thầu điện tử dược phẩm và tính minh bạch.
Ủng hộ
2
Có một mối quan hệ giữa xúc tiến đấu thầu điện tử dược phẩm và năng lực cạnh tranh.
Ủng hộ
3
Có một mối quan hệ giữa xúc tiến đấu thầu điện tử dược phẩm và tính bình đẳng.
Ủng hộ
4
Có một mối quan hệ giữa xúc tiến đấu thầu điện tử dược phẩm và lệ phí đấu thầu.
Ủng hộ
5
Có một mối quan hệ giữa xúc tiến đấu thầu điện tử dược phẩm và sự tham gia của Quốc tế.
Ủng hộ

Giới hạn Nghiên cứu
Giới hạn rõ ràng nhất của nghiên cứu là thiết kế nghiên cứu tại một thời điểm. Do đó, không thể rút ra kết luận bệnh viện về hướng dẫn nhân quả bao hàm trong các mối quan hệ. Theo đó, các mối quan hệ giữa các biến phải được giải thích cẩn thận. Chỉ có thể sử dụng dữ liệu theo chiều dọc mới rút ra được các kết luận nhân quả thực sự. Điều này đặc biệt quan trọng đối với đối tượng nghiên cứu như ứng dụng công nghệ luôn luôn thay đổi theo thời gian trong quá trình phát triển.
Vì chỉ sử dụng các biện pháp tự báo cáo, phương sai phương pháp chung và tính đồng nhất của các câu trả lời đã chệch với các mối quan hệ được quan sát. Tuy nhiên, nhận thức hữu ích và dễ sử dụng không phải là các biện pháp khách quan. Bởi vì các nhận thức cần thiết tự báo cáo, các biện pháp như thế là hiệu quả nhất trong việc đo lường những nhận thức này. Do đó, nghiên cứu áp dụng các công nghệ mới không thể tránh khỏi bị chỉ trích.
Việc thu thập dữ liệu chỉ tập trung ở sáu tỉnh tương đối ở Tây Bắc vì những khó khăn đã gặp phải trong quá trình thu thập dữ liệu. Việc mở rộng nghiên cứu tại các vùng khác nhau của Việt Nam sẽ giúp nghiên cứu có kết quả tổng quát hóa tốt hơn. Đồng thời việc thu thập dữ liệu trong suốt quá trình đấu thầu thực sự có thể rút ra được các câu trả lời tốt hơn cải thiện kết quả nghiên cứu.
Mẫu nghiên cứu bao gồm 230 cán bộ quản lý và cán bộ của các bệnh viện công, bệnh viện ngoài công lập, các công ty dược phẩm và các Cơ quan Chính phủ. Mẫu này chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số bệnh viện trong nước. Vì vậy, các nghiên cứu với quy mô mẫu lớn hơn sẽ được yêu cầu để đảm bảo tính tổng quát thích hợp của kết quả nghiên cứu.
Nghiên cứu này dựa chủ yếu vào phương pháp định lượng thu thập số liệu (mặc dù có sử dụng đến phương pháp định tính ở mức độ hạn chế). Và do đó nghiên cứu này bị hạn chế. Do đó, trong tương lai cần tiến hành thêm nhiều phương pháp định lượng để thu thập dữ liệu nhằm đạt được quan điểm rộng hơn cho nghiên cứu này. Ví dụ, thiết kế nghiên cứu có thể sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp hoặc phân tích nội dung để có được một bức tranh toàn cảnh cho đối tượng nghiên cứu.

Nghiên cứu Tương lai
Nghiên cứu tầm quan trọng tương đối của tính hợp lý về kinh tế và chính trị trong việc ứng dụng các mô hình đấu thầu mới có thể được nâng cao bằng các biện pháp thay thế và thực thi pháp luật. Việc áp dụng mô hình đấu thầu mới cũng phụ thuộc vào các biện pháp thay thế. Nghiên cứu tương lai cần tiến hành phân tích kỹ lưỡng hơn về các yếu tố áp dụng đấu thầu điện tử bao gồm các yếu tố thay thế đối với các mẫu nghiên cứu mới để đưa ra các phân tích. Ngoài ra, Nghiên cứu tương lai cũng cần xem xét cách thực thi pháp luật tác động đến các yếu tố ứng dụng đấu thầu điện tử. Ví dụ: các hóa đơn điện tử của Việt Nam gần đây đã được hợp pháp
thực thi trên cơ sở công cộng. Điều này có thể tạo ra tỷ lệ ứng dụng đấu thầu điện tử mới, góp phần gia tăng tầm quan trọng tương đối của các yếu tố ứng dụng gắn với tính hợp lý kinh tế.
Ngược lại, sự phân tích hiện tại dựa trên tình huống đấu thầu điện tử trên nền tảng tài liệu về chính sách mềm. Xét trên một số chừng mực thực thi pháp luật cân bằng giữa các yếu tố cấu trúc chính trị giải thích tỷ lệ ứng dụng đấu thầu đối với các yếu tố kinh tế thì nghiên cứu thực nghiệm tương lai sẽ có thể giải quyết một cách có lợi.
 
Các tài liệu tham khảo
1. Atlas, A. Pitney, J. Curtis, P. Greenham, G. Hanly, D. Glodstein, J. Mansfield, và T. Grace, các biên tập viên. Các Quá trình đấu thầu. Trung tâm Giáo dục Luật Doanh nghiệp Blec từ bộ phận đào tạo của Longman Cheshire, 1993.
2. J.K.Y. Chan và M.K.O. Lee. Sự chấp nhận mua sắm qua SMS tại Hồng Kông - vai trò của quyền lực, lòng tin và giá trị. Trong Ralph H. và Jr. Sprague, các biên tập viên, Kỷ yếu của Hội nghị Quốc tế thường niên Hawaii lần thứ 36 về Khoa học hệ thống (HICSS'03), trang 10pp. Hiệp hội máy tính IEEE, 2002.
3. G. Chang. Tối ưu hóa và thiết kế chiến lược mua sắm trong thương mại điện tử. Trong Kỷ yếu của năm 2006 Hội nghị về Dịch vụ Tính toán của IEEE Châu Á - Thái Bình Dương (APSCC'06). IEEE, 2006.
4. S. Christensen và W. Duncan. Duy trì tính toàn vẹn của đấu thầu điện tử - phản ánh về khả năng khuôn khổ pháp lý Úc để đáp ứng thách thức này. Tạp chí eLaw, tạp chí điện tử của Đại học Murdoch Luật, 13 (2): 8-36, 2006.
5. R. Du, E. Foo, C. Boyd, và B. Fitzgerald. Định nghĩa dịch vụ an ninh cho đấu thầu điện tử. Bên trong Hội thảo An ninh Thông tin Australasian (AISW2004), tập 32, trang 43-52. Máy tính Úc Society Inc và ACM, năm 2004.
6. M Emiliani. Đấu giá trực tuyến doanh nghiệp-doanh nghiệp: các vấn đề chính để cải tiến quy trình mua hàng. Cung cấp Quản lý chuỗi: Tạp chí Quốc tế, 5 (4): 176-186, 2000.
7. Fitzgerald và A. Fitzgerald, biên tập viên. Các vụ án mạng, vụ án và tài liệu trên Internet, Trí tuệ kỹ thuật số Tài sản và Thương mại điện tử. Butterworths LexisNexis, 2002.
8. P. Herrmann và G. Herrmann. An ninh yêu cầu phân tích quá trình kinh doanh. Thương mại điện tử Nghiên cứu, 6: 305-335, 2006.
9. R. Preston McAfee và John. McMillan. Đấu giá và đấu thầu. Tạp chí Văn học Kinh tế, 25 (2): 699 - 738, tháng 6 năm 1987.
10. Adi Shamir. Cách chia sẻ bí mật. Truyền thông của ACM, 22 (11): 612-613, 1979.
11. L K Shan. Nghiên cứu điển hình về ứng dụng hệ thống quản lý dự án điện tử cho ngành xây dựng tại Hồng Kong. Bsc (hons) trong xây dựng kỹ thuật và quản lý, Sở Xây dựng và Bất động sản, Đại học Bách khoa Hồng Kông, 2003.
12. Chandrasekar Subramaniam và Michael J. Shaw. Ảnh hưởng của các đặc tính của quá trình lên giá trị của eprocurement b2b. Công nghệ thông tin và Quản lý, 5: 161-180, 2004.
13. Srinivas Talluri và Gary L Ragatz. Đấu giá ngược nhiều thuộc tính trong các trao đổi b2b: Khung thiết kế Và thực hiện. Tạp chí Quản lý chuỗi cung ứng, 40 (1): 52-60, 2004.
14. C.P. Thorpe và J.C.L. Bailey. Hợp đồng thương mại, hướng dẫn thực tế cho các giao dịch, hợp đồng, thỏa thuận và hứa hẹn. Woodhead, Cambridge Anh, 1996.
15. UN / CEFACT-tbg6. Tiêu chuẩn hoá quốc tế về Đấu thầu điện tử - Yêu cầu về Đặc điểm Kinh doanh. Báo cáo kỹ thuật ETP032 v2r6, UN / CEFACT, http://www.etendering-tbg6.net, Tháng Một 2006.
16. W. Vickrey. Đếm đạc, đấu giá và đấu thầu niêm phong cạnh tranh. Tạp chí Tài chính, 16 (1): 8-37, Tháng 3 năm 1961.